Vào đầu tháng 10/2021, 136 nước thành viên trong Diễn đàn hợp tác chung của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) đã thông qua một số chính sách thuế mới mang tính lịch sử, hướng tới việc chống xói mòn cơ sở thuế và chuyển lợi nhuận, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng trong việc thu hút đầu tư giữa các quốc gia. Việt Nam, một thành viên của OECD, đã và đang trong tiến trình hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới khó có thể đứng ngoài xu hướng chung. Trong đó có việc áp dụng các cải cách thuế mang tính toàn cầu, đặc biệt trong bối cảnh bùng nổ của nền kinh tế kỹ thuật số.
Trụ cột Hai là xu thế tất yếu
Trụ cột Hai, một trong hai trụ cột do Diễn đàn hợp tác chung thông qua, đã đưa ra quy tắc về thuế suất tối thiểu toàn cầu. Quy tắc này nhằm đảm bảo lợi nhuận của các công ty đa quốc gia phải nộp ở mức thuế suất tối thiểu, trong trường hợp các khoản lợi nhuận đó đang được hưởng mức thuế suất thấp hơn hoặc không chịu thuế.
Xét về mục tiêu phát triển kinh tế toàn cầu và tạo lập môi trường cạnh tranh lành mạnh, công bằng giữa các quốc gia, Trụ cột Hai là một cải cách thuế tiến bộ, nhằm hạn chế thực trạng nhiều công ty đa quốc gia lập kế hoạch giảm thiểu thuế thông qua chuyển lợi nhuận sang các thiên đường thuế, hay hoạt động kinh doanh qua nền tảng số xuyên quốc gia mà không có hiện diện vật lý.
Vì vậy, Chính phủ và các bộ, ngành liên quan cân nhắc học hỏi kinh nghiệm của các quốc gia phát triển trên thế giới và trong khu vực để hạn chế các tác động tiêu cực của chính sách đến nền kinh tế Việt Nam. Theo đó, các cơ quan có thể hoàn thiện hệ thống pháp luật nội địa, hiện đại hóa việc quản lý thuế, nâng cao hiệu quả của các chính sách thuế, cùng với đa dạng hóa các hình thức hỗ trợ đầu tư theo xu thế chung của các nước nhưng vẫn không trái với các cam kết quốc tế
Việc áp dụng Trụ cột Hai dự kiến có tác động lớn đối tới Việt Nam với nhiều thách thức và cơ hội, có tính lâu dài và tính cấp thiết cao. Triển khai Trụ cột Hai là một thách thức lớn bởi hiệu quả của các chính sách ưu đãi thuế hiện tại và sức cạnh tranh của Việt Nam trong việc thu hút đầu tư nước ngoài sẽ bị giảm sút. Thực tế cho thấy trong hơn 30 qua, Việt Nam thu hút đầu nước ngoài chủ yếu qua việc áp dụng chính sách ưu đãi thuế suất, miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp. Ưu đãi thuế vẫn luôn là một công cụ thu hút đầu tư quan trọng nhất và là mối quan tâm hàng đầu của các nhà đầu tư đến Việt Nam. Chính bởi thế mà từ trước đến nay, luôn có một sự cạnh tranh ngầm giữa các quốc gia mà vẫn được nhắc đến như “cuộc đua xuống đáy” về thuế suất ưu đãi. Có thể nói đây là một tiêu chí quan trọng ảnh hưởng đến xu hướng và quyết định đầu tư của các công ty đa quốc gia khi lựa chọn đầu tư, cũng như mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh tại Việt Nam.
Khi Trụ cột Hai được áp dụng, các công ty đa quốc gia có mức thuế suất hiệu quả (effective tax rate) đã nộp, hay sẽ phải nộp tại Việt Nam thấp hơn 15%, sẽ phải nộp thuế suất bổ sung (top-up tax) tại nước đặt trụ sở chính. Điều đó làm giảm tác dụng của ưu đãi thuế mà các công ty con của họ đã hay sẽ được hưởng tại Việt Nam, khiến môi trường đầu tư của Việt Nam sẽ trở nên kém hấp dẫn với họ hơn trước. Việc này không chỉ kéo theo sự chuyển dịch hoặc hạn chế đầu tư từ các tập đoàn đầu tư lớn mà cả từ các doanh nghiệp vệ tinh trong chuỗi cung ứng của các tập đoàn này, dẫn đến nguy cơ sụt giảm cả về số lượng và chất lượng đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
Ở cấp vĩ mô, điều này có thể có ảnh hưởng đến mục tiêu phát triển công nghiệp quốc gia, cũng như sự tăng trưởng xuất khẩu và dự trữ ngoại hối của Việt Nam. Các cơ quan hữu quan của Việt Nam và các công ty đa quốc gia chịu ảnh hưởng của Trụ cột Hai cũng cần nắm bắt, cập nhật đầy đủ các thông tin và áp dụng đúng các tiêu chí kỹ thuật trong quá trình triển khai Trụ cột Hai, nhằm đảm bảo phân tích, đánh giá đúng ảnh hưởng của trụ cột này. Việc nhanh chóng và kịp thời tìm ra hướng đi, giải pháp phù hợp để ứng biến với tình hình mới là bước đi cần thiết tại thời điểm này nhằm duy trì tính hấp dẫn của môi trường đầu tư trong việc thu hút các nhà đầu tư mới và tạo lòng tin đối với các nhà đầu tư hiện tại.
Sự thay đổi trong chính sách thuế toàn cầu là một cú huých thúc đẩy Chính phủ không thể chậm trễ trong việc thực hiện rà soát lại các chính sách hiện hành một cách toàn diện để tìm ra hướng đi đột phá nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực, đảm bảo vị thế cạnh tranh của môi trường đầu tư tại Việt Nam so với các nước trong khu vực, rút ngắn khoảng cách giữa nội luật và các cam kết quốc tế, góp phần đẩy nhanh tiến trình hội nhập của đất nước.
Hành động của các nước, Việt Nam thì sao?
Khi Trụ cột Hai làm giảm hiệu quả của việc áp dụng chính sách ưu đãi thuế, các công ty đa quốc gia chịu tác động của Trụ cột Hai sẽ xem xét các yếu tố khác ngoài thuế như cơ sở hạ tầng, thị trường, môi trường chính sách, ổn định chính trị, chất lượng lao động và các biện pháp hỗ trợ đầu tư ngoài thuế khác để quyết định địa điểm đầu tư.
Điều 18, 19 Luật Đầu tư hiện hành của Việt Nam đã đề cập đến hình thức hỗ trợ đầu tư. Theo đó, Quốc hội giao Chính phủ căn cứ định hướng phát triển kinh tế - xã hội và khả năng cân đối ngân sách nhà nước trong từng thời kỳ, quy định chi tiết các hình thức hỗ trợ đầu tư cho các doanh nghiệp công nghệ cao, doanh nghiệp khoa học và công nghệ, doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn, giáo dục, và một số lĩnh vực ưu tiên khác. Tại các Nghị định chuyên ngành của Chính phủ, tuy một số đã có quy định về cơ chế hỗ trợ, một số lĩnh vực còn chưa có quy định. Hơn nữa, các cơ chế, thủ tục đưa ra có tính thực thi thấp, các nhà đầu tư khó có thể lượng hóa và chắc chắn về lợi ích thu được trong tương lai. Thực tế cũng cho thấy, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hầu như không tiếp cận được các hỗ trợ vay vốn ưu đãi hay kinh phí từ Chính phủ.Chính vì vậy, ngoài công cụ ưu đãi thuế so với các nước trong khu vực, Việt Nam chưa có các lợi thế cạnh tranh phi thuế khác. Trong bối cảnh đó, việc nhanh chóng có các cơ chế chính sách về hỗ trợ và thu hút khác càng trở nên cấp thiết và quan trọng hơn bao giờ hết đối với Chính phủ.
Việc áp dụng Trụ cột Hai có thể giúp Chính phủ gia tăng số thu thuế do việc nâng thuế suất ưu đãi lên mức thuế suất tối thiểu (15%). Đây là có thể là nguồn ngân sách để phục vụ cho việc triển khai thực hiện những chính sách mới.
Thực tế, rất nhiều quốc gia Châu Á và trong khu vực đã đi trước và đã áp dụng nhiều hình thức hỗ trợ khác ngoài ưu đãi thuế để thu hút và giữ chân các nhà đầu tư nước ngoài. Đơn cử như tại Trung quốc, cho phép doanh nghiệp cư trú được phép khấu trừ 175% chi phí nghiên cứu và phát triển (NC&PT) đủ điều kiện cho mục đích tính thuế; doanh nghiệp công nghệ cao và công nghệ mới có thể được chuyển lỗ đến 10 năm cho mục đích tính thuế. Hay tại Thái Lan, doanh nghiệp được hưởng ưu đãi khấu trừ bổ sung 100% chi phí (khấu trừ hai lần) đối với chi phí NC&PT chi trả cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc nhà cung cấp dịch vụ NC&PT tư nhân; Các ưu đãi khác của gói ủy ban đầu tư bao gồm cấp thị thực và giấy phép lao động không giới hạn cho lao động nước ngoài đủ điều kiện; Tín dụng ưu đãi với các doanh nghiệp có dự án NC&PT.
Ngoài ra, trong hoạt động đầu tư tại Việt Nam, các nhà đầu tư cũng rất quan tâm về các khoản hỗ trợ về nhà ở cho công nhân, hỗ trợ đào tạo, hỗ trợ về trông giữ trẻ cho công nhân và một số hỗ trợ khác. Đây là những hỗ trợ rất thiết thực, có thể lượng hóa và so sánh được nên Chính phủ cũng nên cân nhắc.
Các hình thức hỗ trợ được quy định tại nội luật và áp dụng trước khi Trụ cột Hai được công bố có thể sẽ giảm bớt được các rủi ro về vi phạm nguyên tắc của OECD hoặc rủi ro về việc bị hạn chế áp dụng. Việt Nam có thể sẽ mất lợi thế so với các nước đã và đang triển khai hiệu quả các chính sách hỗ trợ, ưu đãi đầu tư mà không chịu ảnh hưởng của nguyên tắc trong Trụ cột Hai.
Việc hoạch định các chính sách hỗ trợ tại thời điểm này, sau khi Trụ cột Hai đã được công bố, cũng đòi hỏi phải áp dụng kỹ thuật cao để tránh các vi phạm nguyên tắc của OECD. Nếu không đạt các yêu cầu tuân thủ OECD, các chính sách này cũng sẽ không thể phát huy tác dụng.
Trước tính cấp bách, quan trọng và phức tạp của vấn đề như nêu trên, Việt Nam cần thành lập tổ công tác bao gồm các chuyên gia có chuyên môn, kinh nghiệm của các bộ, ngành liên quan để phân tích, đánh giá các ảnh hưởng cũng như nghiên cứu, đề xuất các giải pháp đột phá và dung hòa lợi ích của các bên nhằm giảm thiểu tác động bất lợi của cải cách thuế toàn cầu đối với việc thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
Các giải pháp về chính sách thu hút đầu tư trong bối cảnh mới?
Có rất nhiều yếu tố làm nên một môi trường đầu tư hấp dẫn vốn FDI, từ thể chế chính sách đến thị trường, lao động hay cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên, ở đây, tôi chỉ đề cập đến một số giải pháp ưu đãi mang tính kỹ thuật và các giải pháp hỗ trợ trực tiếp từ ngân sách Chính phủ mà có thể các nước đang xem xét.
Áp dụng thuế thuế thuế thu nhập tối thiểu nội địa bổ sung 15% nhằm bảo vệ cơ sở thuế của Việt Nam.
Chính sách ứng phó Trụ cột Hai này đã được nhiều nước và lãnh thổ đưa ra thảo luận. Hồng Kông, Singapore đã ra tuyên bố sẽ áp dụng DMT cho các đối tượng là các công ty chịu ảnh hưởng của Trụ cột Hai. Thái Lan cũng đang cân nhắc nội bộ việc việc áp dụng DMT.
Việt Nam có thể cân nhắc về vấn đề bảo hộ đầu tư như bỏ ưu đãi, áp dụng DMT 15% đối với các công ty bị ảnh hưởng hoặc cho các công ty bị ảnh hưởng tự lựa chọn tiếp tục áp dụng ưu đãi đang có (tức sẽ nộp thuế bổ sung tại nước của công ty mẹ) hoặc không áp dụng ưu đãi và áp dụng DMT 15% tại Việt Nam.
Ngoài ra về vấn đề kỹ thuật, Chính phủ cũng nên xem xét áp dụng DMT 15% trên toàn bộ thu nhập tính thuế của công ty bị ảnh hưởng hoặc áp dụng DMT 15% trên thu nhập điều chỉnh theo Trụ cột Hai của công ty bị ảnh hưởng.
Trường hợp dẫn đến việc thay đổi luật pháp bất lợi cho nhà đầu tư và Điều 13 Luật Đầu tư hiện hành, về đảm bảo đầu tư trong trường hợp pháp luật thay đổi tại Luật Đầu tư, sẽ được áp dụng. Các nhà đầu tư có quyền yêu cầu Chính phủ thực hiện các biện pháp tại Khoản 3, Điều 13 để khắc phục thiệt hại, trong đó có phương án khấu trừ thiệt hại thực tế của nhà đầu tư vào thu nhập chịu thuế. Trong khi đó, trường hợp sẽ không dẫn đến việc thay đổi pháp luật bởi vì nhà đầu tư được lựa chọn phương án tiếp tục hưởng ưu đãi như hiện có. Tuy nhiên, theo tính toán giả định của chúng tôi, nếu Chính phủ không có các biện pháp hỗ trợ để giảm ảnh hưởng của Trụ cột 2, giữa hai lựa chọn nộp thuế tại nước của công ty mẹ và tại Việt Nam ở mức thuế 15%, phương án nộp tại công ty mẹ có lợi hơn về tổng chi phí thuế đối với doanh nghiệp và họ có thể đi theo lựa chọn này. Như vậy, Việt Nam vừa mất quyền đánh thuế, chính sách ưu đãi thuế cho nhà đầu tư cũng không còn phát huy tác dụng thực tế, không được coi là lợi thế khi nhà đầu tư đánh giá môi trường đầu tư tại Việt Nam.
Áp dụng biện pháp kỹ thuật để giảm chi phí thuế TNDN như tăng chi phí khấu hao, tăng chi phí NC&PT và các chi phí khác theo luật định.
Các ưu đãi cho phép doanh nghiệp ghi tăng chi phí được trừ đối với một số hạng mục đầu tư được khuyến khích bởi Chính phủ, ví dụ như NC&PT, chi phí mua sắm tài sản là máy móc thiết bị, chi phí nhân lực công nghệ cao, đã được áp dụng khá phổ biến tại nhiều quốc gia bởi các biện pháp này có tính nhắm thẳng và ràng buộc trên thực tế triển khai của doanh nghiệp, phù hợp với mục tiêu mà Chính phủ mong muốn khuyến khích.
Tuy nhiên, vì các biện pháp này có tác dụng làm giảm chi phí thuế của doanh nghiệp mà không làm thay đổi lợi nhuận kế toán, chúng sẽ không có tác dụng giảm tổng chi phí thuế của doanh nghiệp dưới tác động của Trụ cột Hai.
Áp dụng các biện pháp hỗ trợ trực tiếp từ Chính phủ.
Bên cạnh các ưu đãi về thuế, nhiều quốc gia còn thực thi các chương trình hỗ trợ trực tiếp cho doanh nghiệp thỏa mãn điều kiện nhất định (“Cash grant”). So với ưu đãi thuế thường mang tính hậu kiểm, việc thực thi giải ngân hỗ trợ có thể phức tạp hơn về hồ sơ xin hỗ trợ cần được thẩm định trước khi khoản hỗ trợ được chi trả. Tuy nhiên các chương trình hỗ trợ thường đa dạng, linh hoạt và trọng điểm hơn, được thiết kế để phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế của quốc gia, ngành hay địa phương tại từng thời điểm.
Xét dưới ảnh hưởng của Trụ cột Hai, hỗ trợ trực tiếp có thể giải quyết được vấn đề thuế suất hiệu quả mà các phương án ưu đãi thuế hoặc giảm thuế không xử lý được.
Theo Tạp chí Thuế Nhà nước số ra ngày 11 tháng 6 năm 2022
Ghi chú dành cho độc giả:
Quan điểm trong bài báo này là của tác giả và không nhất thiết phản ánh quan điểm của tổ chức EY toàn cầu và các thành viên.